Ghi chú Hà_Tông_Quyền

  1. Theo Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Hội năm Nhâm Ngọ (1822) niên hiệu Minh Mạng năm thứ 3 dựng tại Văn miếu (Hà Nội) . Từ điển bách khoa Việt Nam và Từ điển văn học (bộ mới) ghi ông đỗ Tiến sĩ Hội nguyên. Thông tin thêm: Minh Mạng lên ngôi, năm 1821, cho mở Ân khoa thi Hương. Năm sau (1822), nhà vua cho mở Ân khoa thi Hội. Hà Tông Quyền đã thi đỗ khoa này, vậy có thể nói ông là một trong số Tiến sĩ khai khoa của nhà Nguyễn.
  2. Hiệu lực ở đây có nghĩa là một hình thức "đi lập công để chuộc tội".
  3. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (bản điện tử) và Từ điển văn học (bộ mới), tr. 563.
  4. Kể từ đây con số ghi cạnh tác phẩm, đó là ký hiệu của bản sách đang có trong Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội).
  5. Theo Từ điển văn học, bộ mới, tr. 563),
  6. Lược theo Nguyễn Kim Hưng, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 564.
  7. Ba-thành tức thành phố:Ba-lăng (Penang) trên quần đảo Maledi, lúc bấy giờ là thuộc địa của Anh.
  8. Nhà Thái Học tức nhà Quốc tử giám (Hà Nội), nơi đây có dựng bia khắc tên những người thi đỗ Tiến sĩ.
  9. Hậu tử có nghĩa là người chết sau. Ở đây tác giả ám chỉ mình.
  10. Bài thơ có lời chua của tác giả bằng chữ Hán, dịch sang tiếng Việt như sau: Ông Đặng Thuận Xuyên là người làng Lộng Đình, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất, vâng mệnh sang sứ nhà Thanh (Trung Quốc) khi về bị khiển trách, chết ở Giang-lưu-ba, ta từng làm văn tế ông, nay đi qua nơi này, không khỏi động lòng cảm thương.